Lịch Sử Phát Triển Của Ngành Thuốc Bảo Vệ Thực Vật P1

LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH THUỐC BẢO VỆ THỰC VẬT

Lịch Sử Phát Triển Của Ngành Thuốc Bảo Vệ Thực Vật P1

Trên Thế Giới

Thời kỳ Tiền sử:

  • Dịch hại chưa ảnh hưởng nhiều đến con người do chưa có trồng trọt và tích trữ lương thực.
  • Các biện pháp phòng trừ dịch hại đầu tiên mang tính chất thần bí – mê tín dị đoan.

2500 năm TCN:

  • Sử dụng hợp chất lưu huỳnh để diệt côn trùng, nhện.
  • Xuất hiện sách Ebers Papyrus ghi lại cách chế tạo thuốc đuổi bọ chét.

1200 năm TCN:

  • Trung Quốc sử dụng sản phẩm thảo mộc để xử lý hạt giống và xông hơi.
  • Sử dụng thủy ngân, thạch tín để diệt chí và côn trùng.

Thời kỳ Sau Công Nguyên:

  • Pliny Elder ghi lại nhiều câu chuyện về sử dụng thuốc sát trùng.
  • Dioscorides ghi nhận độc tính của lưu huỳnh và thạch tín.
  • Trung Quốc sử dụng arsenic sulfides để diệt côn trùng trong vườn.
  • Người La Mã sử dụng cây Veratum album và V. nigrum làm thuốc diệt loài gặm nhấm.
  • Ko Hung đề xuất xử lý rễ lúa bằng arsenic trắng để ngăn chặn côn trùng.

Thời kỳ Phục Hưng:

  • Đánh dấu chuyển biến đáng kể trong biện pháp diệt trừ dịch hại.
  • Sử dụng hóa chất với mục tiêu cụ thể, kết hợp nghiên cứu khoa học.
  • Năm 1690, tài liệu đầu tiên về arsenic ở phương Tây nói về cách dùng arsenic trộn mật ong diệt kiến.

Từ Cuối Thế kỷ 18 đến Cuối Thế kỷ 19:

  • Cách mạng nông nghiệp ở châu Âu dẫn đến bùng phát dịch hại.
  • Các trận dịch lớn ảnh hưởng đến sản xuất và phân bố dân cư.
  • Sử dụng xả bông, nước thuốc lá, pyrethrum, hỗn hợp lưu huỳnh-vôi để diệt trừ dịch hại.
  • Dung dịch Bordeaux (1883) và Paris Green (copper acetoarsenite) ra đời, đánh dấu bước tiến trong nông nghiệp.

Cuối Thế kỷ 19 – Đầu Thế kỷ 20:

  • Sử dụng các chất vô cơ như arsenic, antimony, selenium, sulfur, thallium, zinc, copper.
  • Cải tiến dụng cụ phun xịt, điều chỉnh thời gian sử dụng, pha trộn chất bám dính.
  • Sulfate sắt được sử dụng làm thuốc diệt cỏ năm 1896.

Cuối Thế kỷ 19:

  • Tiến bộ trong côn trùng học y học.
  • Xác định động vật là nguyên nhân truyền bệnh nguy hiểm.
  • Phát hiện ra các trung gian truyền bệnh như ve, ruồi Tse-tse, bọ chét, muỗi.

Từ Đầu Thế kỷ 20 Trở Lại Đây:

  • Nghiên cứu tích cực về nông nghiệp, y học, sinh học.
  • Đề xuất và áp dụng các biện pháp phòng trừ dịch hại hiệu quả hơn.
  • Thay thế các hợp chất thủy ngân bằng các hợp chất mới.
  • Sử dụng thuốc BVTV hiệu quả hơn nhờ cải tiến dụng cụ phun xịt.
  • DDT (Dichloro diphenyl tricholoroethane) được phát hiện có khả năng diệt côn trùng (1939), được thương mại hóa từ năm 1942.
  • Chiến tranh thế giới thứ II thúc đẩy phát triển thuốc trừ sâu hữu cơ tổng hợp.
  • Phe đồng minh tập trung vào các chất clo hữu cơ như DDT và HCH (Benzen hexachloride).
  • Đức phát triển các thuốc nhóm lân hữu cơ như TEPP (tetrathylpyrophosphate) và Parathion.
  • Khám phá cơ chế gây độc của lân hữu cơ và tìm ra chất giải độc atropin.
  • Nhóm thuốc carbamate ra đời vào cuối những năm 1940, được thương mại hóa từ đầu những năm 1950.
  • Pyrethroid tổng hợp được phát triển từ hoa cúc thúy, ít độc và ít bền trong môi trường.

Tóm lại: Lịch sử phát triển của ngành thuốc bảo vệ thực vật đã trải qua nhiều giai đoạn, từ sử dụng các biện pháp thủ công, thảo mộc đến phát triển các hợp chất hóa học phức tạp. Sự phát triển này gắn liền với nhu cầu bảo vệ mùa màng, sức khỏe con người và sự tiến bộ của khoa học công nghệ.

————————————————————————————————————

Đầy Đủ Nội Dung Cho Bạn Đọc Tham Khảo

Trên thế giới Từ thế kỷ 20 trở về trước

Thời kỳ đầu của giai đoạn này – thời kỳ tiền sử, nhìn chung các loài dịch hại chưa có tác động nhiều đến con người. Ở giai đoạn này, con người chưa biết cách trồng trọt, chưa sống định cư, chưa có nhà cửa cố định và chưa có thói quen cũng như nhu cầu tích lũy lương thực, thực phẩm. Do đó, dịch hại của con người trong giai đoạn này chủ yếu là các loài ký sinh như chí, rận, ruồi, muỗi,… với các loài này, vào thời kỳ này, các hóa chất hoàn toàn không được sử dụng để diệt trừ chúng. Mãi tới khoảng thời gian cách đây gần 10.000 năm, khi con người bắt đầu biết trồng trọt, đã sống định cư, có nhà cửa cố định, cuộc sống đã đòi hỏi không chỉ sản xuất đủ cho nhu cầu sống thường ngày mà còn phải biết tồn trữ phòng khi đói kém, khi đó cũng bắt đầu xuất hiện nhu cầu phải phòng trừ dịch hại để bảo vệ mùa màng. Những biện pháp đấu tranh với dịch hại đầu tiên thường gắn liền với các hoạt động thần bí – mê tín dị đoan như cầu thần linh hoặc các động tác nhảy múa để cầu thánh thần. Tuy nhiên, dần dần trải qua hàng ngàn năm với những thử nghiệm và nhiều thất bại, một số biện pháp phòng trừ dịch hại nhất định đã được hình thành và thậm chí có những biện pháp vẫn còn được sử dụng cho tới ngày nay.

Vào thời kỳ 2500 B.C. (Before Christ – trước Công nguyên), các hợp chất lưu huỳnh đã được sử dụng để diệt côn trùng và nhện. Sách Ebers Papyrus, được viết vào khoảng 1550 B.C. có liệt kê cách thức chế tạo thuốc đuổi bọ chét ra khỏi nhà. Năm 1200 B.C., ở miền Đông Trung Quốc, các sản phẩm thảo mộc đã được sử dụng để xử lý hạt giống và để xông hơi. Người Trung Quốc cũng sử dụng phần và tro bếp để ngăn chặn côn trùng trong nhà và trong kho vựa. Thủy ngân và arsenic (thạch tín) được sử dụng để diệt chí và một số loài côn trùng khác. Pliny Elder (23-79 A.D. – Anno Domini – sau Công nguyên) ghi vào sách lịch sử tự nhiên của ông nhiều câu chuyện về dùng thuốc sát trùng trong 3-4 thế kỷ trước đó. Nhà Y học người Hy Lạp Dioscorides (40-90 A.D.) đã biết về tính độc của lưu huỳnh và thạch tín. Đã có những tài liệu cho thấy rằng vào khoảng 900 A.D. người Trung Quốc đã dùng arsenic sulfides để diệt côn trùng trong vườn. Hai loài cây Veratum album và V. nigrum đã được người La Mã dùng làm thuốc trừ loài gặm nhấm.

Các biện pháp diệt trừ dịch hại khác được sử dụng ở Trung Quốc trong thời gian sau công nguyên cũng cho thấy những kỹ thuật rất tinh tế. Ko Hung, một nhà giả kim thuật nổi tiếng ở thế kỷ 4 đã từng đề nghị xử lý rễ lúa bằng arsenic trắng để ngăn chặn côn trùng. Trong giai đoạn này lưu huỳnh và đồng còn được sử dụng để diệt chỉ, mỡ heo cũng được dùng để trị ký sinh trên cừu. Một điều rất lý thú là vào giai đoạn này, trong khi Trung Quốc phát triển mạnh các thành tựu trong phòng chống dịch hại thì ở châu Âu, sau sự sụp đổ của đế chế La Mã, sự sùng bái thần thánh và mê tín dị đoan lại càng tăng cao hơn trong công tác diệt trừ dịch hại.

Thời kỳ Phục Hưng đã đem lại những chuyển biến đáng kể trong các biện pháp diệt trừ dịch hại. Các hóa chất được sử dụng trong thời gian này nhằm vào các đối tượng cụ thể và có sự hỗ trợ của các nghiên cứu khoa học đi liền với những hiểu biết…

cụ thể hơn của con người đối với dịch hại. Vào năm 1690, tài liệu đầu tiên về arsenic ở phương Tây là tài liệu nói về cách dùng arsenic trộn với mật ong để làm bẫy diệt kiến.

Từ nửa cuối thế kỷ 18 đến cuối thế kỷ 19 là thời gian của cách mạng nông nghiệp ở châu Âu. Sản xuất trở nên tập trung, dịch hại càng có điều kiện bùng phát mạnh hơn, song vẫn để dịch hại trở nên trầm trọng hơn. Một số trận dịch xảy ra không chỉ ảnh hưởng đến sản xuất cục bộ mà còn làm xáo trộn cả sự phân bố dân cư trên các vùng lãnh thổ khác nhau trên toàn thế giới. Một số trận dịch lớn xảy ra đã đi vào lịch sử thế giới như: Bệnh sương mai trên cây khoai tây xảy ra tại Ireland, Anh và Bỉ vào những năm 1840s; bệnh phấn trắng trên nho vào những năm 1850s trên những vùng trồng nho ở châu Âu; bệnh rỉ sắt trên cà phê đã bắt buộc Srilanca phải chuyển từ một quốc gia hàng đầu về sản xuất cà phê đã phải chuyển sang trồng trà, và trong suốt 30 năm, một loài côn trùng có tên khoa học là Phylloxera vitifoliae có nguồn gốc từ Mỹ đã gần như hủy diệt công nghệ sản xuất rượu vang của nước Pháp bằng cách tấn công dữ dội vào các cánh đồng nho ở nước này. Cũng trong thời gian này, ngành hóa BVTV cũng ghi nhận thêm những tiến bộ mới, trên nhiều vùng khác nhau, nông dân đã sử dụng xả bông và nước thuốc lá để diệt sâu. Tại các quốc gia vùng Capcasus, các cây thảo mộc có chứa pyrethrum đã được sử dụng. Tại Mỹ, hỗn hợp lưu huỳnh – vôi được sử dụng rộng rãi để trị rệp sáp trên các vườn cam. Dung dịch Bordeaux xuất hiện tại Pháp năm 1883 là một cứu cánh cho các cánh đồng nho đang bị tàn lụi. Tuy nhiên, sự xuất hiện của dung dịch này hoàn toàn là ngẫu nhiên, một nông dân nhằm ngăn chặn việc bẻ trộm nho của những người qua đường đã bôi lên các bụi nho nằm dọc đường bằng một hỗn hợp có vẻ rất độc gồm vôi và đồng. Sau đó ít ngày, khi quay lại ruộng, ông ta phát hiện rằng các cây nho đó đã khỏi bệnh. Kết quả bất ngờ này đã tạo tiền đề cho việc phát hiện thêm hai loại thuốc nữa là dung dịch bordeaux (cho tới nay vẫn được sử dụng trong nông nghiệp) và Paris Green (copper acetoarsenite). Cả hai hợp chất này sau đó còn được phát hiện thêm khả năng tác động tới các côn trùng gây hại, thậm chí Paris Green còn được coi là một trong những loại thuốc trừ sâu phổ biến nhất ở cuối thế kỷ 19.

Nhìn chung các nguyên liệu sử dụng trong giai đoạn cuối thế kỷ 19 và ngay cả đầu thế kỷ 20 hầu hết là những chất vô cơ như: arsenic, antimony, selenium, sulfur, thallium, zinc, copper hoặc một số chất được lấy từ thảo mộc. Các chất này phần nào đã được tinh chế lại và sử dụng hữu hiệu hơn bằng sự cải tiến của các dụng cụ và kỹ thuật phun xịt, sự điều chỉnh thời gian sử dụng, việc pha trộn thêm các chất giúp cho thuốc bám dính tốt hơn và trải được đều hơn trên bề mặt tiếp xúc.

Biện pháp hóa học diệt cỏ dại được ghi nhận đầu tiên là vào năm 1896 khi người ta phát hiện thấy sulfate sắt có thể diệt được cỏ lá rộng mà không ảnh hưởng đến cây ngũ cốc. Trong khoảng 10 năm tiếp sau đó, có rất nhiều các chất vô cơ khác như: sodium nitrate, ammonium sulfate và sulfuric acid được sử dụng như thuốc diệt cỏ. Tuy nhiên, vào thời điểm đó công lao động còn quá rẻ nên rất ít nông dân muốn sử dụng thuốc trừ cỏ, hầu hết đều áp dụng những biện pháp thủ công như nhỏ cỏ bằng tay hay áp dụng các biện pháp canh tác khác.

Cuối thế kỷ 19, có nhiều những tiến bộ vượt bậc trong ngành côn trùng y học. Đây chính là thời kỳ các động vật cùng đến được xác định chính là những nguyên nhân truyền các bệnh nguy hiểm. Trước chân đốt được xác định chỉ và Kilborne đã phát hiện ra bệnh sốt trên bò là do một loài thuộc protozoan gây ra và loài này được lan truyền bởi các loại ve ký sinh trên bò. Năm 1896, Bruce đã phát hiện rằng một loài ruồi châu Phi – ruồi Tse-tse chính là thủ phạm gây ra bệnh ngủ. Bọ chét trên chuột là nguyên nhân truyền bệnh dịch hạch, còn muỗi là nguyên nhân lan truyền bệnh sốt rét, đó là những kết quả ghi nhận được trong năm 1897. Ruồi cũng là nguyên nhân làm lan truyền bệnh thương hàn được ghi nhận vào năm 1898. Tới năm 1900, muỗi đã được xác định thêm là nguyên nhân của bệnh sốt vàng da. Khi phát hiện ra các vấn đề trên, đương nhiên các nhà khoa học cũng nhận thấy rằng, chỉ có thể hạn chế các bệnh trên nếu có các biện pháp hữu hiệu diệt trừ trung gian truyền bệnh kể trên. Tuy vậy, dùng các biện pháp nào và loại thuốc gì cho hiệu quả vẫn là một thách thức đối với các nhà khoa học cho tới ngày nay.

Từ đầu thế kỷ 20 trở lại đây

Vào đầu thế kỷ 20, con người đã tham gia rất tích cực vào nghiên cứu nông nghiệp, y học và sinh học, qua đó cũng đã đề xuất và áp dụng các biện pháp phòng trừ tích cực hơn, hiệu quả hơn. Nếu từ cuối thế kỷ 19, HgCl được sử dụng rộng rãi để làm thuốc trừ nấm thì tới đầu thế kỷ 20 đã được thay thế bằng các hợp chất thủy ngân phenyl (vào năm 1915), thủy ngân akyloxyalkyl (vào những năm 1920) và thủy ngân anlyl (vào những năm 1940). Các hợp chất arsenate chỉ được đưa vào sử dụng cho tới khi bị thay thế bởi các hợp chất fluorine vào thập kỷ 1920s. Cũng vào thời gian này, thuốc BVTV được sử dụng hiệu quả hơn nhờ vào sự cải tiến của các dụng cụ phun xịt. Thuốc diệt côn trùng đầu tiên được sử dụng rộng rãi là các hợp chất Dinitro và Thiocyanates vào đầu những năm 1930. Thập kỷ 1930 được kết thúc bằng việc phát hiện khả năng diệt trừ sâu hại của hợp chất hóa học có tên là DDT (Dichloro diphenyl tricholoroethane) hợp chất này thực ra đã được tổng hợp vào năm 1874 bởi một nhà khoa học người Đức là Tiến sĩ Zeidler, khi tổng hợp hoạt chất này, Zeidler hoàn toàn không nghĩ đến khả năng diệt côn trùng của DDT. Đến năm 1939, TS. Paul Muller – một nhà hóa học người Thụy Sĩ làm việc tại công ty Geigy Chemical (nay là Novartis) đã khám phá ra khả năng diệt côn trùng của thuốc DDT. Năm 1940 khám phá này được cấp bằng sáng chế và tới năm 1942 trở đi đã được thương mại hóa với nhiều tên gọi khác nhau. Với khám phá đó, năm 1948 Muller đã nhận được giải thưởng Nobel, song lại là giải Nobel về Y học vì đóng góp lớn của DDT trong thời kỳ đó là chặn đứng được dịch sốt rét cũng như các bệnh do chí, rận và rệp làm trung gian tấn công trên con người.

Ngành hóa chất diệt trừ dịch hại đã có những bước tiến mạnh trong 40 năm đầu của thế kỷ này, song khi chiến tranh thế giới lần thứ II nổ ra, những nhu cầu bức thiết trong thời chiến đã góp phần tạo ra một bước ngoặt mới với sự phát triển mạnh mẽ hơn của các thuốc trừ dịch hại mà các sản phẩm mới là các chất hữu cơ tổng hợp.

Khác với thế chiến thứ I, chiến tranh xảy ra chủ yếu là ở châu Âu, các vấn đề dịch hại đối với binh lính chỉ là những bất tiện trong khi sinh hoạt khi có chỉ, rận hoặc rệp xuất hiện trong điều kiện tập trung quá đông người và thiếu vệ sinh. Chiến tranh thế giới lần thứ II đã lan rất rộng qua các vùng nhiệt đới, nơi các trung gian truyền các bệnh nguy hiểm như sốt rét, thương hàn, bệnh ngủ, sốt xuất huyết… hoàn toàn có thể hủy diệt cả những đạo quân lớn. Cả hai phía tham chiến đều nhận thức rõ điều đó, vì vậy các nghiên cứu để có được các thuốc trừ sâu hữu hiệu là một trong các vấn đề được ưu tiên và khuyến khích nhất trong giai đoạn này.

Phe đồng minh tập trung nhiều vào các chất thuộc nhóm clo hữu cơ. Mỹ đẩy mạnh việc sản xuất DDT trong khi Pháp phát hiện thêm một loại thuốc trừ sâu rất tốt khác là Hexachlorocychlohexan HCH (còn gọi là Benzen hexachloride hay BHC). Thật ra, chất này đã được Faraday tổng hợp vào năm 1825, song cũng như nhiều hợp chất khác, khả năng diệt sâu đã không được phát hiện vào thời gian đó. Tiếp theo đó, đầu thập niên 1940, các nhà khoa học Pháp và Anh đã tìm ra chất đồng phân gamma của BHC, thường được gọi là Lindan có tính sát trùng rất mạnh.

Để đối phó lại, ở Đức, các phát minh tập trung cho một số nhóm hóa chất khác có tính độc không kém gì các hợp chất clo hữu cơ, đó chính là các thuốc nhóm lân hữu cơ. Sự việc bắt đầu vào năm 1931 khi Willy Lange ở viện đại học Berlin tổng hợp một số chất chứa mạch nối P-P. Trong khi tổng hợp dimethyl và dimethyl phosphofluoride, ông và các phụ tá đã phát hiện thấy hiệu ứng thể hơi của chất này lên chính cơ thể họ. Lange cũng phát hiện ra rằng chỉ cần một lượng nhỏ đã đủ để tạo ra hiệu quả. Tuy biết rõ khả năng sử dụng hợp chất này làm thuốc sát trùng, song Lange đã rời nước Đức sau đó và không tiếp tục công việc trên nữa. Việc nghiên cứu tiếp theo đã được lãnh đạo bởi Gerhand Schrader – người được coi là cha đẻ của các loại thuốc sát trùng gốc lân hữu cơ. Vào những năm đầu thập niên 1940, Schrader và các đồng nghiệp đã tìm ra một phương pháp đơn giản để tổng hợp một ester đặc trưng của acid pyrophosphoric (TEPP; tetrathylpyrophosphate). Năm 1944, chất này được thương mại hóa dưới tên là Bladan. Do Bladan không bền vững trong dung dịch lỏng, người ta lại tiếp tục tổng hợp thêm các chất mới. Cho tới khi chiến tranh kết thúc, Schrader đã tổng hợp được khoảng 7000 hợp chất lân hữu cơ. Vào năm 1944, một chất mới được tổng hợp, có hoạt tính diệt côn trùng và độ bền vững tối ưu. Sau chiến tranh thế giới, phương pháp tổng hợp chất này đã bị đồng minh chiếm lấy, sau đó chất này được đưa ra thị trường nông dược dưới tên thương mại là Parathion, chất này đã trở thành thuốc trừ sâu thông dụng nhất trong nhóm thuốc lân hữu cơ. Trong những năm sau đó, một số chất khác có độ độc cao hơn như Sarin, Soman và Tabun đã được dùng trong chiến tranh và được chính phủ Đức giữ bí mật rất kỹ. Sau chiến tranh, trong số các hợp chất kể trên, nhiều chất đã tìm được thị trường mới trong nông nghiệp và ngay lập tức chúng mang lại những thành công vang dội. Nhìn chung chúng rẻ, phát huy hiệu quả ngay ở những liều lượng tương đối thấp, dễ sử dụng và có phổ tác dụng rộng. Với nông dân thời bấy giờ, chúng quả thật là đã mang lại những điều kỳ diệu.

Cùng với việc tổng hợp các chất hữu cơ, người ta cũng khám phá ra cơ chế gây độc của lân hữu cơ, đó là sự ức chế men acetylcholinesterase. Các nhà khoa học Đức đã tìm ra hiệu ứng parasymtomimetic của các chất lân hữu cơ và tìm thấy rằng atropin có thể giải độc được. Các khám phá quan trọng khác trong lịch sử các chất lân hữu cơ là việc khám phá sự tái hoạt hóa và già cỗi của những men cholinesterase phosphoryl hóa. Vào những năm giữa của thập niên 1950, Wilson đã tìm thấy chất oximes có thể tái hoạt hóa acetylcholinesterase sau khi nó đã bị chất lân hữu cơ ức chế.

Nhóm thứ ba trong số các thuốc trừ sâu tổng hợp hữu cơ là nhóm carbamate được phát minh vào những năm cuối thập niên 1940 bởi các nhà khoa học Thụy Sỹ. Tuy vậy việc thương mại hóa các sản phẩm thuộc nhóm này chỉ bắt đầu từ đầu những năm 1950 với việc đưa vào thị trường và sử dụng rộng rãi thuốc carbaryl do công ty Union Carbide của Mỹ sản xuất vào năm 1953.

Một trong những nhóm thuốc sát trùng quan trọng được khám phá gần đây nhất là các thuốc pyrethroid tổng hợp. Các hợp chất này là dẫn xuất từ phân tử ly trích được trong hoa cây cúc thúy. Loài hoa này được dân trong các bộ tộc vùng Capcasus và Persia sử dụng từ những năm 1800 để trừ chỉ rận trên cơ thể. Hoa cúc thúy được sản xuất hàng hóa lần đầu tiên vào năm 1828 ở Armenia. Tiếp theo đó Nam Tư khởi sự sản xuất từ năm 1840 và tập trung cho tới thế chiến thứ I, sau đó loài cây này được trồng nhiều ở Nhật Bản và Đông Phi. Chất trích từ cúc thúy chứa 6 ester có quan hệ gần gũi với nhau và đều có tính sát trùng được gọi chung là pyrethrin, cấu trúc của chúng được biết rõ vào khoảng năm 1910-1924. Trong thời gian này, hàng trăm chất pyrethroids đã được tổng hợp và chất đầu tiên được thương mại hóa là Allethrin. Sau khi Allethrin được thương mại hóa chỉ có một vài loại pyrethroids được tiếp tục khám phá. Mãi tới năm 1966, công ty Sumitomo của Nhật Bản và phòng thí nghiệm Michael Elliot (tại Harpenden – Anh) mới mang lại những bước phát triển mới về pyrethroids. Một số pyrethroids được sử dụng thông dụng nhất là Permethrin, Cypermethrin và Fenvalerate, đều được tổng hợp vào những năm của thập niên 1970. Đây là những chất ít độc đối với động vật có vú và ít bền trong môi trường nên ngày càng chiếm nhiều thị trường rộng hơn.

Bạn đọc thêm Lịch Sử Phát Triển Của Ngành Thuốc Bảo Vệ Thực Vật P2 tại đây

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *


Messenger

Zalo

Tiktok

Gọi Ngay